-->
Hiện đang có dự án: + Tìm kiếm, nghiên cứu tính khả thi tiến tới khai thác Vàng + Đầu tư khai thác đập thủ...
Nhìn lại
các cuộc khủng hoảng trước, nguyên nhân chính là một số ít cá nhân đã dùng vốn
huy động được trong xã hội đầu cơ vào các tài sản rủi ro hoặc sử dụng vì mục
đích cá nhân mà không tạo ra các giá trị cho xã hội. Điều đáng quan tâm là mức
độ nghiêm trọng của các cuộc khủng hoảng này đã tăng dần theo thời gian. Hiện tại
đang có những nguy cơ tiềm ẩn rất lớn cho dù những biện pháp kỹ thuật (như các
quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tài chính hay cơ chế
giám sát …) đã được cải tiến tốt hơn rất nhiều.
Chu kỳ 10 năm
Khủng hoảng năm 1989 là do nhà nước cho người dân muốn làm
gì thì làm (ít nhất là ở khía cạnh tài chính tín dụng). Hậu quả của nó là tháp
Ponzi mà ở đó tiền của người gửi sau dùng để trả lãi cho người gửi trước đó chứ
làm gì có thể kinh doanh mức sinh lời lên đến 24%/tháng và tháp này sụp đổ khi
không còn người gửi tiền nữa. Nhân tố gây ra khủng hoảng là hằng hà vô số các
hợp tác xã tín dụng (hơn 7.000) mà chúng có thể ví như bầy cá lòng tong.
Khủng hoảng năm 1999 là do việc lơi lỏng các ngân hàng thương mại
cổ phần để một số doanh nghiệp biến chúng thành sân sau hay bộ phận huy động
vốn để đầu cơ. Hoặc một số doanh nghiệp câu kết với các ngân hàng để dùng vốn
vay ngắn hạn đầu cơ vào bất động sản. Kết quả rủi ro đạo đức đã xảy ra. Những
ngân hàng hay doanh nghiệp lúc đó cũng đã có quy mô đáng kể, nhưng so với nền
kinh tế và quy mô tuyệt đối là khá khiêm tốn.
Khủng hoảng năm 2009 xảy ra cũng là kịch bản tương tự năm 1999,
nhưng mức độ trầm trọng hơn. Tình trạng sở hữu chéo đã hết sức trầm trọng và
“cái chết” cũng là do dùng tiền huy động để đầu cơ vào các tài sản (bất động
sản, vàng và một số tài sản tài chính rủi ro khác). Năm 2009 còn bị cú đánh bồi
sau đó với sự sụp đổ của Vinashin, Vinalines với quy mô rất lớn so với nền kinh
tế. Mức độ rất nghiêm trọng đã xảy ra để đầu năm 2011, Bộ Chính trị phải ra
nghị quyết ổn định vĩ mô làm ưu tiên cho dù Đại hội XI vẫn đặt tăng trưởng làm
ưu tiên. Trong cuộc khủng hoảng năm 2009, quy mô của các doanh nghiệp (kể cả
ngân hàng) đã lớn, nhưng chưa đến mức quá lớn; trong khi Vinashin có quy mô rất
lớn nhưng có “bà đỡ” là nhà nước đứng đằng sau nên mức độ sốc không quá khủng
khiếp.
Nhìn lại ba cuộc khủng hoảng chu kỳ 10 năm xảy
ra chỉ có một nguyên nhân duy nhất là một số cá nhân đã dùng vốn huy động được
của cả nền kinh tế đi đầu tư vào các tài sản rủi ro để kiếm lợi ngắn hạn. Khi
bong bóng tài sản đang căng thì mọi chuyện rất ổn. Tuy nhiên, trục trặc đã xảy
ra khi nền kinh tế “hết tiền” cho việc bơm các bong bóng này.
Nguy cơ tiềm tàng
Như đã nên ở trên, kinh tế thị trường là con
đường đi đến giàu có của mỗi quốc gia. Sự thịnh vượng của Việt Nam sẽ phải dựa
vào các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong nước). Tuy
nhiên, rủi ro cũng rất lớn và trục trặc xảy ra với các doanh nghiệp tư nhân
trong nước sẽ gây ra tác động nghiêm trọng hơn rất nhiều vì hai lý do:
Thứ nhất, khi rủi ro xảy ra với các DNNN thì những người điều hành
muốn đưa ra các quyết định rủi ro hơn vẫn chịu các ràng buộc vì không thể muốn
làm gì thì làm. Trái lại, đối với các doanh nghiệp tư nhân, quyền hành nằm toàn
bộ trong tay các chủ doanh nghiệp nên các quyết định được đưa ra nhanh và rủi
ro hơn rất nhiều. Cho nên, tình trạng con bạc khát nước (nếu có) sẽ rất trầm
trọng.
Thứ hai, các DNNN vẫn có ràng buộc ngân sách mềm hay khi rủi ro xảy
ra thì nhiều người vẫn nghĩ rằng có nhà nước đứng đằng sau và sẽ cứu nên mức độ
hoảng loạn sẽ ít hơn. Trái lại các doanh nghiệp tư nhân thường không có được
điều này (trừ tình huống quá lớn không thể thất bại). Do vậy, hiệu ứng tan chảy
hay sụp đổ sẽ nhanh chóng và dư chấn mạnh hơn rất nhiều.
Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa hội nhập sâu
rộng chưa từng có trong lịch sử. Đây là những cơ hội rất lớn để trở nên phát
triển hơn. Tuy nhiên, nhìn từ những trục trặc trước đây, việc tận dụng các cơ
hội không phải là điều đơn giản và các cơ hội đã biến thành thách thức. Với dư
địa cho tăng trưởng sẵn có không còn và nội lực chưa được phát huy, thách thức
phía trước với Việt Nam trên con đường hội nhập là rất lớn. Trong bối cảnh ước
muốn là rất lớn, nhưng vai trò của nhà nước là có hạn. Do vậy, Nhà nước chỉ nên
tập trung ổn định vĩ mô, cải thiện môi trường kinh doanh và tạo sân chơi bình
đẳng thay vì có sự tham gia một cách chủ động như thời gian qua. Nói chung đây
là lúc Nhà nước cần phải xác định rất rõ vai trò của mình và phân định rạch ròi
những vấn đề Nhà nước cần có vai trò, tránh việc làm thay thị trường và cần
thiết tạo môi trường cho cộng đồng phát triển song song với Nhà nước và Thị
trường nhằm kiềm chế sự cấu kết giữa các doanh nhân (những người có tiền) và
một số quan chức nhà nước (những người có quyền), tạo ra các quan hệ thân hữu,
lợi ích nhóm.
Nhìn ngắn hạn, tiềm ẩn rủi ro lớn nhất trong
năm 2019 với Kinh tế Việt Nam có thể từ các doanh nghiệp tư nhân lớn trong
nước. Nền kinh tế Việt Nam, thực ra, rất mong manh, chỉ cần một hoặc một vài
doanh nghiệp lớn nào đó gặp trục trặc là cả nền kinh tế gặp vấn đề ngay. Do
vậy, một trong những việc hết sức quan trọng là các cơ quan giám sát phải để
mắt rất kỹ đến các doanh nghiệp này. Chính sách và quản lý vĩ mô cần phải đảm
bảo sao cho các rủi ro đừng xảy ra song song với việc tạo dựng môi trường kinh
doanh tốt hơn.
1. Chu
kỳ kinh tế là gì?
Chu kỳ kinh tế (hay còn gọi là chu kỳ kinh doanh)
là sự thay đổi theo thời gian của hoạt động kinh tế. Chu kỳ này bao gồm sự gia
tăng hoặc giảm xuống của sản xuất, tuyển dụng, giá cả, lợi nhuận và các chỉ số
kinh tế khác. Chu kỳ kinh doanh được xác định bằng sự thay đổi của GDP thực và
tốc độ tăng trưởng GDP.
Nền kinh tế
thường trải qua 4 giai đoạn theo vòng tuần hoàn. Cụ thể:
·
Giai đoạn suy thoái kinh tế: Đây
là giai đoạn mà hoạt động kinh tế bắt đầu suy giảm. Doanh nghiệp giảm sản xuất
và cắt giảm chi phí để giữ được mức lợi nhuận. Nhiều doanh nghiệp phải giảm giá
sản phẩm để thu hút khách hàng. Điều này dẫn đến tăng lượng thất nghiệp vì
doanh nghiệp phải cắt giảm nhân sự để tiết kiệm chi phí.
·
Giai đoạn khủng hoảng kinh tế: Đây
là thời kỳ khó khăn trong lịch sử kinh tế, khi mà hoạt động kinh tế giảm sút mạnh
mẽ, thất nghiệp tăng cao và giá cả tăng đột biến. Đây là giai đoạn kéo dài và
có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống của nhiều người dân và doanh nghiệp trên toàn
cầu.
·
Giai đoạn hồi phục kinh tế: Là
giai đoạn sau khi kinh tế trải qua giai đoạn suy thoái hoặc khủng hoảng. Khi
này các hoạt động kinh tế bắt đầu tăng trưởng trở lại và các chỉ số kinh tế dần
được cải thiện. Đây là giai đoạn kinh tế tích cực và đáng mong đợi, giúp nền
kinh tế phục hồi trở lại.
·
Giai đoạn hưng thịnh: Là
giai đoạn đặc trưng cho sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế. Biểu hiện rõ rệt
là sự gia tăng sản xuất, tăng trưởng kinh tế và sự tăng trưởng đáng kể của các
chỉ tiêu kinh tế. Trong giai đoạn này, nền kinh tế có xu hướng phát triển mạnh
mẽ, tăng trưởng GDP cao và tỷ lệ thất nghiệp thấp.
Khi đạt đỉnh điểm của sự hưng thịnh, nền
kinh tế bắt đầu chững lại và có dấu hiệu của sự suy thoái. Đây cũng là thời
điểm bắt đầu của chu kỳ kinh
tế khi bước vào
giai đoạn khủng hoảng.
Có nhiều
nguyên nhân góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế, nhưng trong số đó có một số nguyên
nhân chính sau:
Đây là một trong những nguyên nhân hàng
đầu góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế. Bởi vì nó tạo ra một chu kỳ kinh tế phát triển vô tận, khi các công ty và cá
nhân vay tiền quá mức để đầu tư hoặc tiêu dùng.
Khi đó, giá
trị tài sản và nợ vay tăng cao đột ngột, khiến nhiều công ty và người dân không
thể trả nợ. Những người vay tiền không có khả năng trả nợ và các ngân hàng cho
vay cũng sẽ phải chịu áp lực tài chính.
Điều này có
thể góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế bởi vì chúng ảnh hưởng đến sự ổn định
của hệ thống tài chính và kinh tế. Các chính sách này có thể bao gồm việc tăng
quá mức ngân sách, tăng lãi suất quá cao hoặc quá thấp.
Khi chính
sách tài khóa sai lệch, chính phủ sẽ chi tiêu quá mức so với thu nhập chung.
Điều này dẫn đến nợ công tăng và giá trị đồng tiền giảm, khiến người dân và
doanh nghiệp phải đối mặt với giá cả tăng và thu nhập giảm. Nếu chính sách tiền
tệ không ổn định, đồng tiền có thể mất giá và gây ra lạm phát.
Nhiều tổ
chức tài chính và ngân hàng đã sử dụng các sản phẩm tài chính phức tạp, gây khó
khăn cho việc quản lý rủi ro tài chính. Việc quản lý rủi ro tài chính kém có
thể dẫn đến việc thất bại của các tổ chức tài chính và khủng hoảng tài chính.
Lạm phát thể
góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế khi nó trở nên quá cao và không kiểm soát được.
Khi lạm phát tăng, giá cả sẽ tăng lên, làm giảm giá trị của tiền và tăng chi
phí cho người tiêu dùng. Nếu giá cả tăng quá nhanh, người tiêu dùng sẽ giảm
tiêu dùng, dẫn đến suy thoái kinh tế.
Lạm phát có
thể dẫn đến sự không ổn định của tiền tệ, làm giảm giá trị của tiền và khiến
người tiêu dùng và doanh nghiệp không tin tưởng vào tiền tệ và thị trường tài
chính.
Nếu quá
trình giảm phát được thực hiện quá nhanh hoặc quá mạnh thì có thể gây ra khủng
hoảng kinh tế. Nếu lạm phát giảm quá đột ngột, nó có thể dẫn đến sự suy giảm
của hoạt động kinh tế, doanh nghiệp giảm sản xuất, tăng mức thất nghiệp và suy
thoái kinh tế.
Bên cạnh đó,
việc tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát có thể dẫn đến sự khó khăn trong việc
vay vốn, giảm nhu cầu tiêu dùng và đầu tư của người tiêu dùng và doanh nghiệp
và dẫn đến sự suy thoái kinh tế.
Vào năm
2022, nền kinh tế chịu sự ảnh hưởng của COVID-19 dẫn đến suy giảm sản xuất,
thương mại và đầu tư, gây ra sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Đến năm 2023, đỉnh
điểm của dịch COVID-19 đã hạ xuống. Tuy nhiên, hệ lụy của nó vẫn còn ảnh hưởng
kéo dài.
Bên cạnh đó, các cuộc chiến tranh thương
mại giữa các quốc gia châu u dẫn đến giảm nhu cầu, giảm đầu tư và suy
thoái kinh tế. Nền kinh tế thế giới có thể đang đối mặt với một số vấn đề như
tăng trưởng chậm, lạm phát, nợ công và khủng hoảng tài chính dẫn đến suy thoái
kinh tế toàn cầu.
Chính vì vậy, vào năm 2023, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng phần nào.
Chính phủ phải đưa ra các biện nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của suy thoái
và khôi phục lại nền kinh tế. Các biện pháp có thể bao gồm hỗ trợ tài chính cho
các doanh nghiệp, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và tăng cường hợp tác quốc tế.
Khủng hoảng kinh tế có thể gây ra những
hậu quả nghiêm trọng đến chu kỳ kinh tế và xã hội. Có thể thấy rõ nhất, đó là tình trạng gia tăng tỷ lệ
thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, người dân sẽ gặp khó khăn trong
việc kiếm tiền và có thể phải đối mặt với việc bị giảm thu nhập và hạn chế chi
tiêu.
Bên cạnh đó,
sự khủng hoảng về kinh tế có thể làm giảm doanh số bán hàng và lợi nhuận của
các doanh nghiệp. Nếu không thể tìm ra các giải pháp để thích ứng và phục hồi,
các doanh nghiệp có thể phá sản.
Quan trọng
hơn, kinh tế bị khủng hoảng còn làm giảm sự đầu tư và phát triển trong nhiều
lĩnh vực, bao gồm cơ sở hạ tầng, giáo dục và nghiên cứu phát triển. Điều này có
thể ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai của nền kinh tế.
Khủng hoảng nền
kinh tế của một quốc gia có thể tác động đến các quốc gia khác nhau thông qua
các kênh thương mại và tài chính, gây ra sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu.
Vậy cá nhân
phải làm gì để đầu tư và quản lý chi tiêu hiệu quả theo chu kỳ của nền kinh tế?
Dưới đây là các gợi ý đầu tư hữu ích mà chúng tôi gợi ý cho bạn!
Trong giai
đoạn suy thoái kinh tế, các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe, thực phẩm và nhu
yếu phẩm có thể có sức khỏe tốt hơn và tiêu thụ ổn định hơn. Trong khi đó,
trong giai đoạn hưng thịnh, các lĩnh vực như công nghệ, đồ điện tử và du lịch
có thể được đầu tư để tận dụng sự tăng trưởng.
Nếu kinh tế
suy thoái, việc đầu tư vào các khoản tiền tệ an toàn như vàng và đô la Mỹ sẽ
giúp bạn bảo vệ tài sản khỏi rủi ro thị trường. Ngược lại, trong giai đoạn hưng
thịnh, đầu tư vào cổ phiếu và quỹ đầu tư có thể mang lại lợi nhuận cao hơn.
Việc đầu tư
vào nhiều loại tài sản khác nhau có thể giúp giảm rủi ro và tăng khả năng đón
đầu với thị trường. Điều này có thể bao gồm đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu,
quỹ đầu tư hay các tài sản khác như địa ốc, hàng hóa…
Khi chu
kỳ kinh tế suy thoái, quản lý chi tiêu là việc quan trọng để duy
trì tài sản và tiết kiệm chi phí. Việc cân nhắc các chi phí không cần thiết,
tìm kiếm các ưu đãi và giảm thiểu nợ có thể giúp bạn tiết kiệm được một số tiền.
Việc lên kế hoạch tài chính cá nhân và đầu
tư đúng chỗ có thể giúp bạn tạo ra một tương lai ổn định và bền vững. Hy vọng
bài viết trên sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về chu kỳ kinh tế và cách đầu tư hiệu quả khi nền kinh
tế suy thoái.
Ø Kinh
tế suy thoái nên đầu tư gì? Lời khuyên thông minh dành cho bạn trẻ
Có nhiều nguyên nhân nội sinh và ngoại sinh
gây ra suy thoái kinh tế như giá nhiên liệu, chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai
hoặc lạm phát. Mức độ ảnh hưởng gây ra suy thoái trong từng thời kỳ cũng khác
nhau.
Các dấu hiệu nhận biết
suy thoái kinh tế
Vận tải biển suy yếu
Các hàng hóa trên thế giới
phần lớn vận chuyển thông qua đường biển như: dầu thô, nông sản, kim loại,...
Khi nhu cầu vận tải biển giảm, đồng nghĩa giao dịch các loại hàng hóa trên thế
giới cũng đang giảm mạnh.
GDP giảm
Nếu chỉ số GDP giảm hai
quý liên tiếp thì đó là dấu hiệu chính xác cho việc một quốc gia rơi vào giai
đoạn suy thoái.
Đồng tiền suy yếu
Trong giai đoạn suy thoái
kinh tế, giá trị đồng tiền quốc gia bị sụt giảm, ảnh hưởng không chỉ trong quốc
gia đó mà còn các nước liên quan đến xuất nhập khẩu.
Suy thoái kinh tế nên đầu
tư gì?
Suy thoái kinh tế nên làm
gì? Đây là giai đoạn vô cùng nhạy cảm vì hầu như các ngành kinh tế đều bị ảnh
hưởng. Do đó, bạn cần cân nhắc kỹ các hình thức đầu tư dưới đây và lựa chọn
phương thức phù hợp nhất.
Vàng
Suy thoái kinh tế có nên
mua vàng? Đây dường như là loại tài sản được nhiều nhà đầu tư nắm giữ nền kinh
tế suy thoái. Vàng là kim loại quý, luôn có xu hướng tăng giá trong thời gian
dài. Vàng hầu như ít bị biến động khi nền kinh tế xuống dốc. Để đầu tư hiệu quả,
bạn cần nghiên cứu kỹ thời điểm giao dịch phù hợp.
Xem thêm: Thắc mắc “có
nên mua vàng thời điểm này” thường xuyên được hỏi từ các nhà đầu tư vào thị trường
vàng nhằm tích lũy sinh lời dài hạn.
Bất động sản
Bất động sản trong giai
đoạn này thường có giá thấp hơn các giai đoạn khác nên nếu có khả năng tài
chính, bạn có thể mua, tích trữ và thu về lợi nhuận cao khi nền kinh tế hồi phục.
Chứng khoán
Cho dù nền kinh tế có biến
động do suy thoái thì chứng khoán vẫn là kênh đầu tư được nhiều người lựa chọn
vì sự linh hoạt. Nếu nắm bắt được diễn biến thị trường, đọc hiểu để định giá cổ
phiếu, bạn sẽ xác định được thời điểm mua chứng khoán tốt với giá hời.
Bí quyết đầu tư chứng
khoán giai đoạn kinh tế suy thoái
Tác động tiêu cực
Giống như các hình thức đầu
tư khác, thị trường chứng khoán giai đoạn này vẫn bị tác động đáng kể:
• Doanh nghiệp bị ảnh hưởng
do sức mua thị trường thấp, dẫn đến doanh thu thấp, giá cổ phiếu bị giảm.
• Tâm lý nhà đầu tư trở
nên thận trọng hơn. Nhà đầu tư có xu hướng bỏ tiền vào các hạng mục an toàn như
trái phiếu, chứng chỉ quỹ, gửi ngân hàng hoặc vàng.
Tác động tích cực
Suy thoái kinh tế ngành
nào hưởng lợi? Tuy nhiên, không hẳn toàn bộ thị trường chứng khoán sẽ tê liệt
khi kinh tế suy thoái. Sẽ có những ngành theo chu kỳ được hưởng lợi trong giai
đoạn này của nền kinh tế.
Cụ thể, các ngành nghề
thiết yếu như y tế, năng lượng, điện nước, tiện ích, nguyên liệu cơ bản,... vẫn
ghi nhận tăng trưởng ổn định qua các giai đoạn suy thoái kinh tế. Nhu cầu người
dùng sẽ giảm thiểu các hạng mục chi tiêu xa xỉ, hưởng thụ nhưng vẫn cần các chi
phí sinh hoạt cố định mỗi ngày.
Do đó, bạn nên cân nhắc đầu
tư vào các ngành này để giảm thiểu rủi ro và vẫn duy trì mức tỷ suất lợi nhuận
như kỳ vọng.
Những lưu ý khi đầu tư
Trong tất cả các giai đoạn
của nền kinh tế, đặc biệt khi có dấu hiệu suy thoái, bạn nên lưu ý các điểm
sau:
• Luôn đảm bảo tỷ trọng
giữa tiền mặt và cổ phiếu. Không đầu tư tất cả nhưng cũng không để tiền mặt bên
ngoài quá nhiều.
• Cân bằng danh mục đầu
tư, chuyển đổi sang hình thức an toàn hơn như trái phiếu và chứng chỉ quỹ.
• Hạn chế đầu tư vào nhóm
cổ phiếu chu kỳ mạnh như gang, thép, công nghiệp nặng, xây dựng,... Đây thường
là những ngành chịu tác động nặng nề khi suy thoái kinh tế.
• Luôn tập trung nâng cao
kiến thức và kinh nghiệm đầu tư. Khi đó, bạn sẽ xác định được cổ phiếu nào tốt
và thời điểm phù hợp để thực hiện giao dịch. Suy thoái có thể là thời điểm
thích hợp để bạn mua cổ phiếu kỳ vọng với mức giá thấp.
F Chu
kỳ của Benner
Samuel
Benner là một phú nông thịnh vượng trước khi ông mất tất cả tài sản vào cuộc khủng
hoản tài chính năm 1873 ở Hoa Kỳ. Sau thất bại ông đã cố gắng đi tìm nguyên
nhân cho những biến động của thị trường và ông đã phát hiện ra một nguyên lý giải
thích tính chu kỳ của thị trường
Benner thậm chí đã xuất bản một quyển sách vào năm 1875 để phổ biến rộng rãi nguyên lý này. Suốt 50 năm sau đó, rất nhiều dự đoán (không phải tất cả) của ông trong quyển sách đã diễn ra chính xác.
1. Nguyên lý của chu kỳ
Benner dựa trên chu kỳ gieo trồng của các loại nông sản
- 11 năm chu kỳ của giá
ngô với các đỉnh luân phiên cách nhau 5 và 6 năm
- Giá bông cũng có các đỉnh
cách nhau 11 năm
- 27 năm chu kỳ của giá
thép với các đáy là mỗi 11,9,7 năm và đỉnh là 8,9,10 năm.
Ở
góc độ nào đó, một người nông nhân sẽ cảm nhận chu kỳ trong dài hạn một cách dễ
dàng hơn những người khác. Họ dành toàn bộ cuộc đời của mình để quan sát vòng lặp
của thời tiết, nắng, mưa...Để canh tác mùa vụ. Chu kỳ 11 năm của mặt trời chắc
chắn sẽ có tác động đến việc gieo trồng cũng như kế hoạch cày cấy, thu hoạch của
họ. Benner cho rằng nền kinh tế là thống nhất vì thế chu kỳ giá cả của các loại
nông sản và mùa vụ cũng sẽ có tác động đến toàn bộ chu kỳ của nền kinh tế cũng
như của các thị trường đầu tư khác.
2. Những lưu ý khi sử dụng
chu kỳ của Benner
Có
hai lưu ý khi sử dụng các lý thuyết về chu kỳ. Các lưu ý này áp dụng cho tất cả
các lý thuyết chu kỳ bao gồm cả Gann, sóng Elliot, Fibonnacci và dĩ nhiên là cả
Benner. Đầu tiên, chúng ta cần chấp nhận là dữ liệu thực tế từ thị trường tính
tới hiện nay vẫn chưa đủ. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, để xác định một
học thuyết có thực sự đúng đắn hay không thì cần ít nhất là 500 năm thực nghiệm.
Thứ hai, các yếu tố ngẫu nhiên sẽ có tác động đến mô hình như thế nào. Trong mô
hình của Benner, nhiều đỉnh và đáy cách đỉnh, đáy thực tế là 1 hoặc 2 năm. Mặc
dù chúng khá gần với thực tế nhưng chúng không chính xác hoàn toàn.
Nhìn chung, các mẫu hình
về chu kỳ đáng để tham khảo khi cần xác định xu hướng trong dài hạn. Tuy nhiên
không nên đầu tư hoàn toàn chỉ dựa vào các thông tin từ các nguyên lý chu kỳ
3. Cách sử dụng chu kỳ của
Benner
Ø Dòng
A
tương ứng với những năm báo hiệu đã qua đỉnh và bắt đầu suy thoái của chu kỳ thị
trường.
Ø Dòng
B
tương những với những năm đạt đỉnh, là thời gian tốt để bán tài sản.
Ø Dòng C tương ứng với những năm đáy của thị trường là thời gian tốt để tích lũy tài sản.
Lưu ý: có một số nhận xét:
(1) Tay này dự đoán tốt thật. Tuy nhiên nếu nhìn kĩ một chút và một nhà đầu tư có chút am hiểu về lịch sử TTCK Hoa Kỳ, chúng ta sẽ nhận ra Sam Benner đoán một vài lần sai nghiêm trọng. Ví dụ như năm 1969 mua vào mạnh, sẽ ngay đỉnh bull-market Go-Go Years và chịu mức sút giảm -70% tiếp theo trong giai đoạn 1972-1974 stagflation. Một ví dụ khác là nếu bán hết năm 1981, sẽ là ngay đáy của bull market 20 năm tiếp theo khổng lồ của đợt FED giảm lãi suất hậu Paul Volcker và Dot-com Bubble. Ví dụ nữa là năm 2005 nếu mua vào mạnh mẽ cũng sẽ là ngay đỉnh điểm của bong bóng BĐS Hoa Kỳ thông qua các công cụ phái sinh điên rồ như MBS, CDO, Synthetic CDO …
(2) Dù sao đi nữa, biểu đồ của Samuel Benner là có xác suất đúng rất cao (đâu đó 60%-70%), vậy là đạt tiêu chuẩn của thiên tài đầu tư Peter Lynch rồi . Biểu đồ nầy cũng giống như các dự đoán của nhà tiên tri Valga hay tương tự, nơi mà chúng ta bị lỗi thiên kiến hindsight-bias, hoặc survivorship-bias, tức có hàng triệu dự đoán ngoài kia mỗi ngày dạng như vậy, nhưng chỉ 1/(10^6) đoán đúng, và chúng được lưu truyền lại thay vì 999,999 dự đoán sai khác.
Nguồn: tổng hợp trên internet