Sau sinh nở, tu hành, cưới xin cũng là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời mỗi con người. Theo quan niệm của người Lào thì cưới xin là thời kỳ con người phải trưởng thành về nhiều mặt để bước vào cuộc sống tự lập đầy khó khăn thử thách. Hơn thế nữa, họ lại chuẩn bị làm cha, làm mẹ, một điều hết sức mới mẻ đối với người thanh niên. Bởi vậy ông bà, cha mẹ, họ hàng thường đặc biệt quan tâm giúp đỡ con cháu trong bước ngoặt quan trọng này. Tục cạo đầu đi tu ở một số địa phương trước khi cưới vợ, phải chăng cũng là một sự chuẩn bị để người thanh niên bước vào cuộc sống tự lập.
|
Đám cưới ngày xưa ở Lào |
Hình thức cưới xin ở Lào khá phong phú, đa dạng, mỗi nhóm dân tộc mỗi địa phương thường có một số nghi lễ cưới xin khác nhau, song xét về bản chất thì giống nhau. Có thể nói cưới xin phản ánh khá rõ nét một hình thức sinh hoạt tinh thần của người Lào và tích tụ nhiều tập quán cổ của mỗi nhóm dân tộc.
Chế độ phong kiến tồn tại khá lâu trong lịch sử dân tộc Lào. Những ý thức hệ phong kiến, tín ngưỡng, và các tập quán cổ truyền không ngăn cản sự tiếp xúc giữa trai gái. Ngược lại việc gặp gỡ giữa trai gái được coi là điều tự nhiên và dường như được bản mường, cộng đồng khuyến khích, bởi nó thường mang đến cho bản mường không khí tươi vui, rộn ràng. Tục ngữ Lào đã đúc kết: “Ruộng tốt nhờ màu, bản ấm cúng nhờ có nhiều cô gái” (Na đi nhõn phùn, bãn ùn nhõn sảo lải). Quả vậy bản mường nào có nhiều cô gái nết na xinh đẹp, chăm chỉ lao động, giỏi dang công việc nội trợ thì vào những đêm trăng hầu như không bao giờ vắng tiếng ca hát xen lẫn tiếng khèn bè dìu dặt của các chàng trai. Ở nông thôn, nhà có con gái, cha mẹ thường dựng một cái lán dưới sân gọi là “hươn khuồng”. Tối đến các cô gái thường xuống lán ngồi quay sợi, cán bông dưới ánh “cà-bong” (gỗ mục giã nhỏ trộn với dầu rái cuốn lá đốt thay đèn dầu). Và đây là lúc để các chàng trai trong bản mường hoặc các bản lân cận đến vui chơi, thổi khèn bè, tỏ tình, tỏ ý bằng những làn điệu dân ca uyển chuyển hay những câu nói giao duyên, ví von giàu hình tượng gọi là “pha-nhả”. Tiếng khèn, tiếng ca rộn ràng vang lên từ “hươn khuồng” là niềm tự hào của gia đình. Gia đình có con gái mà vắng tiếng khèn, tiếng ca trong những đêm trăng là không bình thường.
Với quan niệm, tập quán trên, trai gái ở Lào có nhiều dịp tốt để gặp gỡ nhau, đặc biệt là trong lao động sản xuất, những đêm trăng hội hè, cưới xin. Qua đó, tình yêu trai gái nảy nở một cách tự nhiên, trong sáng. Xưa nay, trai gái ở Lào là con em nhân dân lao động thường được tự do chọn người yêu, hầu như không bị ép buộc như một số nước phong kiến khác. Đương nhiên, khi trai gái lấy nhau cũng qua bàn bạc và sự chấp thuận của cha mẹ họ hàng hai bên. Việc chọn lựa người bạn trăm năm tất nhiên không thể tách rời trình độ sản xuất, sự phát triển của xã hội và tập quán cổ truyền của mỗi nhóm dân tộc. Chẳng hạn các cô gái thường để ý đến các chàng trai khỏe mạnh, giỏi công việc cày bừa, phát rẫy, dũng cảm trong săn bắn, chài lưới và trong những ngày lễ hội lại có tiếng khèn bè dìu dặt tha thiết. Nếu chàng trai đó đã qua tu hành, được phong sắc “thít” (sư chú), “chan” (sư bác) thì càng tốt. Còn các chàng trai thường chọn các cô gái có nhan sắc, múa dẻo, có giọng ca ngọt ngào quyến rũ lại giỏi lao động như gặt hái, chăn nuôi, dệt vải. Ngoài ra các chàng trai và cả gia đình còn để ý đến một điểm khác đã đi vào kho tàng ca dao tục ngữ Lào: “Bờng xạng hãy bờng hảng, bờng nang hãy bờng mè” (xem voi hãy nhìn đuôi, xem nàng hãy nhìn mẹ). Người Lào cho rằng người con gái chịu ảnh hưởng sâu sắc tính cách của người mẹ. Nếu người mẹ phúc hậu, lao động cần cù, thạo công việc nội trợ thì người con gái cũng có tính nết tương tự. Tiêu chuẩn môn đăng hộ đối thường được tầng lớp phong kiến, quan lại quyền quý coi trọng.
Có thể do xuất phát từ trình độ sản xuất, điều kiện kinh tế nên các chàng trai Lào ở mỗi miền có quan niệm, sự lựa chọn người yêu khác nhau. Chẳng hạn một số địa phương ở miền Trung, các chàng trai thường bị chi phối bởi quan niệm:
Trai tơ lấy phải nạ dòng.
Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu.
Nạ dòng lấy được trai tơ.
Đêm nằm hí hửng như mơ được vàng.
Ngược lại, ở một số địa phương Lào trước đây tuy không phổ biến, nhưng người thanh niên có thể lấy nạ dòng đã có một hay hai con là chuyện bình thường trong gia đình cũng như trong bản mường. Bởi vậy, tục ngữ mới có câu “Đi quăng chài được cá trứng, mới lấy vợ đã có con là phúc nhà từ trước” (Pay tức hẻ, đay pa khày, au mia mày đạy lục phõm, bun sãng tặng tè lẳng). Ở miền Nam Lào, các chàng trai lại rất kỵ lấy vợ là một nạ dòng hay gái góa, nên mới có câu tục ngữ:
Gái nạ dòng ba xu cũng không cưới
Gái tơ ba trăm cũng cưới.
(Sảo mẹ hãng, sảm xạ tang ko bò tèng.
Sảo ọi lọi sảm họi kọ tèng au).
Trước đây ở Lào người con gái mười lăm, mười sáu tuổi đã lấy chồng. Phổ biến nhất là ở lứa tuổi mười tám đôi mươi, ngoài hai mươi lăm tuổi được coi là quá lứa hoặc ế chồng. Con trai thường lấy vợ ở tuổi ngoài hai mươi. Ở vùng nông thôn và vùng dân tộc ít người, con trai thường lấy vợ sớm hơn ở đô thị. Trước kia cũng như ngày nay, ở nông thôn cũng như thành thị gia đình người Lào phổ biến là một vợ, một chồng. Vợ chồng thường chỉ chênh lệch nhau dăm ba tuổi. Riêng tầng lớp phong kiến quan lại thường lấy nhiều vợ và vợ lẽ thường ít hơn chồng mười lăm hai mươi tuổi. Nhất là trong các đô thị dưới chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ trước đây, không ít những công chức sĩ quan ngụy có quyền thế lấy đến ba, bốn vợ, có cô vợ lẽ trẻ hơn chồng đến ba, bốn mươi tuổi. Trong vùng giải phóng trước kia và dưới chế độ dân chủ nhân dân ngày nay, con trai Lào thường ngoài hai mươi lăm tuổi mới lấy vợ, con gái trên mười tám mới lấy chồng. Riêng các dân tộc ít người ở miền núi xa xôi vẫn có khuynh hướng dựng vợ gả chồng sớm hơn nhân dân vùng đồng bằng, đô thị.
Tục cưới xin của người Lào trước đây cũng như ngày nay thường theo trình tự như dạm hỏi, lễ cưới, lại nhà. Khi con cái trưởng thành, ông bà cha mẹ thường nghĩ đến việc dựng vợ gả chồng. Cha mẹ nhắm một người nào đó mình ưng ý rồi hỏi ý kiến con cháu. Hoặc trai gái tự tìm hiểu, thương yêu nhau rồi chủ động báo cho cha mẹ. Sau khi thỏa thuận trong gia đình, cha mẹ nhờ trưởng họ, các già làng có uy tín chọn ngày lành tháng tốt mang lễ vật sang nhà gái dạm hỏi gọi là “can xù-khỏ”. Mâm lễ trong buổi ngỏ ý này rất đơn giản, chỉ cần trầu cau, thuốc lá. Người Lào vùng Đông Bắc Thái Lan trong lễ dạm hỏi này thường có thêm một cái âu bạc đựng ba bat (đơn vị tiền tệ Thái Lan) gọi là tiền thăm dò gia đình nhà gái. Nếu ưng thuận thì nhà gái nhận tiền. Nếu không ưng thuận thì nhà gái không phải trả lời, mà chỉ cần xếp tiền bỏ lại trong âu bạc của nhà trai.
Khi họ nhà trai ngỏ ý xin làm thông gia, nếu họ nhà gái nhận lời thì hẹn một ngày nhất định, mời họ nhà trai đến để thách cưới và chọn ngày giờ tổ chức lễ cưới. Theo tập quán, dù nhận lời hay không nhà gái cũng đón tiếp họ nhà trai một cách niềm nở, trân trọng. Đúng ngày giờ đã hẹn, họ nhà trai mang lễ vật sang nhà gái. Lễ vật có trầu cau, thuốc lá, các loại bánh… một số địa phương ở Nam Lào trong mâm lễ còn có cả thóc giống, vừng , hạt bông. Các lễ vật do họ nhà trai mang đến, nhà gái sử dụng một phần để biếu bà con họ hàng nội ngoại và một phần gửi lại biếu cho nhà trai. Trong buổi gặp gỡ này, họ hàng nhà gái thường đến đông đủ. Đặc biệt phía họ nhà gái không thể thiếu ông cậu. Sau nội dung ngỏ ý xin cưới của vị đại diện họ nhà trai, phía nhà gái thách cưới gọi là “Khạ-đong”. Thông thường nhà gái thách tiền, vàng, bạc, trâu, gạo, rượu. Việc thách cưới nhiều hay ít tùy theo tục lệ mỗi địa phương, mỗi gia đình và tùy theo địa vị xã hội cha mẹ nhà gái.
Con gái thuộc tầng lớp phong kiến, quan lại cao cấp thường thách cưới cao hơn lớp quan lại, viên chức ở cơ sở. Đối với tầng lớp này, việc thách cưới mang tính chất mua bán, trục lợi và người con gái thường về làm dâu ngay sau lễ cưới. Còn đối với đông đảo nông dân lao động việc thách cưới dường như là một tập quán, có tính chất tượng trưng để đề cao con gái của mình. Chính vì hàm ý đó mà trong lễ rước rể, đón rể có tục cả hai họ đều có những hành động ngăn cản buổi lễ như thách thức giăng chỉ cản đường, ra câu đố… nhằm đề cao chú rể cũng như cô dâu. Gặp trường hợp nhà gái thách cưới cao, nhà trai trình bày xin giảm bớt theo tập quán bản mường và đặc biệt chú ý đề cao cô dâu tương lai là người có nhan sắc, nết na, được nhiều chàng trai bản đầu trên xóm dưới để ý. Nhưng theo tục lệ từ xưa dù ít hay nhiều cũng phải có khoản tiền thách cưới và họ nhà trai phải trao cho họ nhà gái ngay khi mở đầu lễ cưới trước sự chứng kiến của hai họ. Nếu là gái góa, nạ dòng thì tiền thách cưới thường thấp hơn các cô gái chưa chồng. Con trai góa vợ hay bỏ vợ, họ nhà gái thường thách cưới cao hơn các chàng trai chưa vợ.
Thỏa thuận thách cưới xong, hai họ cùng bàn ngày cưới. Đó là một ngày lành tháng tốt do thầy số hoặc các già bản giàu kinh nghiệm chọn. Những ngày xấu, ngày dữ, cấm kỵ không được tổ chức đám cưới với quan niệm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ. Người Lào thường tổ chức đám cưới vào khoảng thời gian từ 15 tháng 10 đến 15 tháng 3 nông lịch Lào tức từ tháng 9 đến tháng 2 dương lịch.
Sau lễ dạm hỏi, thách cưới và hẹn ngày cưới, đôi trai gái có thể đi lại thăm hỏi, giúp đỡ gia đình hai họ trong lao động sản xuất một cách tự nhiên. Ở một số địa phương có tục trai gái yêu nhau, trước ngày cưới thường trao cho nhau những vật làm tin chỉ hai người biết gọi là “khõng-mẵn” như nhẫn, hoa tai, vòng tay, trâm cài tóc, gương lược… Nếu đã nhận vật làm tin của một chàng trai nhưng cô gái thay đổi đi hứa hôn với người khác thì phải trả lại vật làm tin. Ngược lại, nếu chàng trai thay lòng đổi dạ, yêu một cô gái khác thì không có quyền đòi lại vật làm tin. Đây cũng là một lệ được các chàng trai cô gái Lào chấp nhận.
Gần đến ngày cưới, vì lý do chính đáng, chàng trai phải vắng mặt một thời gian thì cô gái vẫn chờ đợi, vì sự thỏa thuận giữa hai họ thông qua già bản là sự bảo đảm chắc chắn. Trong suốt thời gian này, họ hàng nhà trai phải quan tâm đúng mức đến cuộc sống, lao động sản xuất của nhà gái và khi gặp khó khăn trở ngại cần được sự giúp đỡ tích cực. Việc làm trên coi như thay cho sức lao động của chú rể đáng lẽ đã trở thành một lao động chính của nhà gái. Cũng trong thời gian này nếu họ nhà gái muốn từ chối, cô gái có quan hệ tình ý với một người khác thì họ nhà trai có quyền xóa bỏ sự thỏa thuận trước đó và đương nhiên họ nhà gái phải hoàn lại các lễ vật.
Trước ngày cưới, nhà trai cũng như nhà gái đều lo chuẩn bị chu đáo ngày hạnh phúc cho con cháu. Theo tục lệ trước đây ở nông thôn Lào sau ngày cưới chàng trai thường đến ở rể một thời gian, có trường hợp chàng trai ở rể khá lâu tùy thuộc mỗi gia đình, mỗi địa phương. Trước kia, rất ít các cô gái sau ngày cưới về làm dâu nhà chồng. Nhà gái thường chuẩn bị nệm, gối, chăn … và cả áo quần, khăn quàng để cô dâu biếu trưởng họ, cha mẹ chồng gọi là “khương xẳm-ma”. Nếu nhà gái thấy phải làm nhà mới thì phải báo trước cho nhà trai chuẩn bị tre, gỗ, và mọi thứ cần thiết khác đem sang nhà gái dựng. Bà con, họ hàng, xóm giềng của hai họ đều tham gia dựng nhà mới cho cô dâu chú rể. Theo tục lệ của người Lào việc dựng nhà phải xong trong một ngày. Do đó, cả hai họ cần có sự chuẩn bị chu đáo. Việc tiếp đãi, tổ chức ăn uống cho bà con xóm giềng đến tham gia dựng nhà do nhà gái đảm nhận.
Theo tập quán cổ ở Lào, xưa nay đám cưới là dịp vui chơi, ăn uống của hai họ và cộng đồng bản mường. Gia đình khá giả thường mổ trâu, bò, nhà nghèo cũng mổ lợn, gà, nấu rượu ngon để thết đãi bà con họ hàng đến dự. Đối với gái trai đây cũng là dịp gặp gỡ múa hát, tỏ tình, tỏ ý. Đám cưới ở Lào thường có một số nghi lễ như mời sư tụng kinh, làm lễ cầu may “xù-khoẳn”, rước rể, làm lễ cầu may chung cho cô dâu chú rể. Đại diện hai họ dặn dò khuyên bảo dâu, rể, cô dâu chú rể tặng lễ vật cho trưởng họ, cha mẹ chú rể. Bao trùm lên tất cả vẫn là không khí vui tươi náo nhiệt của trai gái, cộng đồng bản làng.
Trước ngày cưới, nhà trai cùng nhà gái đều chuẩn bị trầu cau, thuốc lá, bánh trái, cơm nước để đón bà con xa gần đến mừng. Vào dịp này bà con xóm giềng thân thiết thường đến giúp đỡ gia chủ nấu nướng, têm trầu bổ cau, gánh nước, tiếp đón khách. Nhà trai cũng như nhà gái thường mời sư đến làm lễ cầu nguyện hạnh phúc cho con cháu . Nếu nhà cô dâu chú rể ở gần nhau thường được mời sang cùng dự lễ cầu yên.
Đúng ngày cưới, anh em, bà con thân thiết dù ở xa gần cũng đến dự đám cưới khá đông đủ. Ai cũng có tặng phẩm mừng cô dâu chú rể để thể hiện tình cảm của mình. Tặng phẩm cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào khả năng mỗi người, chẳng hạn ở nông thôn trước đây, đi mừng lễ cưới thường có tiền, vải vóc, váy áo, bát đĩa, xoong nồi, gạo thóc, gà vịt, rượu… Theo truyền thống xưa nay, dù nhiều hay ít, dù những lễ vật giản dị đơn sơ nhất, gia chủ đều hết sức trân trọng cảm ơn, bởi quan niệm đó là tình nghĩa, là tấm lòng của chòm xóm. Đến dự lễ cưới, mọi người đều mặc những bộ váy áo dân tộc đẹp nhất, luôn tỏ thái độ hồ hởi, vui mừng, sẵn sàng dự bữa cơm rượu và tham gia vui chơi múa hát.
|
Chạu bào - Chạu sảo |
Đến giờ đã định, họ nhà trai bắt đầu rước rể sang nhà gái. Dẫn đầu là vị trưởng họ, tay bưng âu bạc đựng tiền thách cưới. Đi sau là bốn cô gái chưa có chồng, mỗi cô gánh một cái tráp đựng trầu cau, thuốc lá và một vò rượu được bọc vải hoặc giấy màu. Tiếp theo là mâm lễ (pha-khoẳn) rồi đến chú rể, các chàng trai phù rể, gia đình, họ hàng, bạn bè. Để chuẩn bị đón chú rể, nhà gái cũng soạn một mâm lễ để chú rể đến sẽ làm lễ cầu may chung một mâm với cô dâu. Trên mâm lễ thường có hoa quả, gạo nếp, trầu cau, bánh trái, đặc biệt không thể thiếu một quả chứng gà luộc. Nhiều địa phương trên mâm lễ còn có những cây hình tháp được kết bằng hoa lá gọi là “tổn mạc-bèng”. Có vùng còn chuẩn bị một âu nước hoặc vỏ một con ốc biển lớn ngâm các cánh hoa thơm để vẩy cho cô dâu chú rể.
Từ nhà chú rể sang nhà cô dâu, đám rước luôn sôi động bởi tiếng hò reo, hát ca của các chàng trai, cô gái. Đến gần nhà gái đám rước rể thường bị những sợi chỉ trắng giăng ngang buộc phải dừng lại. Những người làm việc này tự xưng là họ nhà gái và đòi phải có lễ vật mới được đi qua, chú rể mới lấy được cô dâu – một cô gái nết na, xinh đẹp là con cháu của họ, có địa phương họ nhà gái ra câu đố, họ nhà trai trả lời được mới cho đi qua. Đám rước phải dừng lại, họ nhà trai vui vẻ, ôn tồn xin đi và trao các lễ vật đã chuẩn bị trước mới được vào cổng. Đám rước rể đến chân cầu thang nhà gái thì đã có đại diện đón tiếp. Đó là một phụ nữ đứng tuổi, đông con, gia đình sống hòa thuận, nói năng hoạt bát khéo léo thay mặt họ nhà gái xuống đón chú rể và mời họ nhà trai lên nhà. Lúc này đến lượt họ nhà trai đề cao chú rể. Bạn bè, chú rể dọa giữ chú rể lại, không cho lên nhà cô dâu, họ nói chú rể là một chàng trai khỏe mạnh, dũng cảm, lao động giỏi không bao giờ ế vợ… Đại diện họ nhà gái lễ phép, chắp hai tay trước ngực xin trưởng họ, cha mẹ, họ hàng, bè bạn nhà trai cho chú rể lên nhà dự lễ cưới và ngỏ ý nhà gái đã chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp chu đáo, nồng nhiệt nhất. Các chàng trai dự lễ rước rể đáp lại lời thỉnh cầu của nhà gái bằng những tiếng reo hò vang dội.
Họ nhà trai lần lượt lên nhà trước sự chào hỏi đón tiếp niềm nở của nhà gái. Mở đầu, trưởng họ nhà gái ngỏ ý nhắc lại tiền thách cưới được hai bên thỏa thuận. Trưởng họ nhà trai vui vẻ tuyên bố sẵn sàng làm theo tập quán bản mường và đúng lời hứa rồi trao âu tiền cho trưởng họ nhà gái trước sự chứng kiến của xóm giềng và bà con hai họ. Sau khi vào lễ bàn thờ nhà gái, chú rể ra ngồi cạnh cô dâu bên mâm lễ để bước vào nghi thức chính của đám cưới. Mở đầu, các nhà sư tụng kinh (xụt-môn dên) cầu nguyện hạnh phúc và vẩy nước phép (hốt nẵm-dên) cho cô dâu chú rể. Ở một số địa phương sư thầy còn rắc những cánh hoa thơm lên mái tóc của cô dâu chú rể mong Trời-Phật ban cho cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc. Tiếp đến là lễ “xù-khoẳn” – một nghi lễ phổ biến ở Lào. Nhưng đây là lễ “xù-khoẳn” đám cưới (xù-khoẳn-đong) được tiến hành trong không khí trang trọng hơn, có tăng lữ, trưởng họ, cha mẹ, bà con, xóm giềng, bầu bạn cả hai họ cùng dự, còn được gọi là lễ cầu may lớn (xù-khoẳn nhày).
Ngồi bên mâm lễ, chú rể khoác tay cô dâu gọi là “xù-khoẳn cặp cài” tượng trưng sự gắn bó thủy chung giữa cô dâu và chú rể. Trưởng họ nhà trai, nhà gái lần lượt chúc cô dâu chú rể thương yêu gắn bó với nhau cho đến lúc tóc bạc răng long, rồi vẩy nước “hỏi sẳng” và buộc chỉ cổ tay. Đây là loại nước tượng trưng cho mối tình gắn bó thủy chung như nhân vật Xẳng-Thong trong truyện thơ Xỉn-xay một tác phẩm cổ điển nổi tiếng ở Lào. Giữa lúc các cụ già, cha mẹ, họ hàng lần lượt buộc chỉ cổ tay cho cô dâu chú rể thì một cụ già lấy quả trứng luộc trên mâm bóc vỏ rồi dùng một sợi tóc cắt làm đôi xem lòng đỏ có đầy đặn không. Người Lào cho rằng sự tròn khuyết của lòng đỏ quả trứng có quan hệ nhất định đến hạnh phúc trăm năm của đôi vợ chồng trẻ. Xem xong cụ già trao cho cô dâu chú rể mỗi người một phần. Cô dâu trao phần trứng của mình cho chú rể tượng trưng cho sự chăm sóc của vợ đối với chồng. Để đáp lại tình cảm đằm thắm đó, chú rể lại trao phần trứng của mình cho cô dâu rồi cả hai cùng ăn.
Ở nhiều địa phương còn tục chọn người dẫn cô dâu chú rể vào phòng ngủ. Đảm nhận việc này là người phụ nữ được chọn làm đại diện họ nhà gái ra đón chú rể ở chân cầu thang. Người phụ nữ này dùng một sợi chỉ gấp làm đôi, mỗi người cầm một đầu rồi dẫn vào phòng ngủ, cô dâu đi trước, chú rể theo sau. Việc trải chiếu nệm do cô dâu chú rể cũng được chú ý. Khi đám rước rể lên nhà thì một người phụ nữ phúc hậu hoặc một cặp vợ chồng đông con cái, sống hòa thuận vào buồng ngủ trải chiếu, nệm cho cô dâu chú rể. Người Lào tin rằng cuộc sống hòa thuận, hạnh phúc của người trải nệm, chiếu có ảnh hưởng đến đôi vợ chồng trẻ sau này.
Tiếp theo chú rể mang nến, hương đến lễ trưởng họ nhà gái. Cô dâu cũng mang lễ vật dâng cho trưởng họ, cha mẹ chú rể. Lễ vật tùy thuộc tập quán mỗi địa phương, mỗi gia đình. Ở nông thôn Lào trước đây cô dâu thường mừng trưởng họ, cha chồng mỗi người một bộ quần áo, một khăn tắm và mẹ chồng một bộ váy áo. Việc làm này biểu hiện lòng kính trọng và biết ơn của cô dâu đối với công sinh dưỡng của cha mẹ chồng. Có địa phương ngay sau đám cưới, trưởng họ nhà gái dẫn cô dâu sang nhà chú rể tặng lễ vật cho trưởng họ và cha mẹ chồng. Có vùng sau đám cưới ba ngày trưởng họ nhà gái mới dẫn cô dâu sang nhà chú rể dâng lễ. Dù thời điểm ở mỗi địa phương có khác nhau, song nghi lễ này thực chất là hình thức biểu lộ tình cảm, sự tôn kính của cô dâu đối với trưởng họ và cha mẹ họ hàng chú rể.
Kết thúc lễ cưới, trưởng họ nhà trai ngỏ lời cảm ơn sự đón tiếp thân tình, nồng nhiệt của nhà gái và xin gửi gắm chú rể ở lại làm con cháu nhà gái. Đại diện nhà gái vui vẻ nhận lời và dặn dò cô dâu cách ứng xử, trách nhiệm đối với cha mẹ, anh em nhà chồng. Đám cưới chấm dứt, chú rể cùng họ hàng trở về nhà mình. Vào một giờ đã hẹn trước, thông thường khoảng sáu, bảy giờ tối, họ hàng nhà trai, đông nhất là bè bạn, chính thức tiễn chú rể sang nhà cô dâu. Nhà gái thường chuẩn bị cơm rượu để đón mừng chàng rể cùng họ hàng, bạn bè nhà trai. Đây là buổi liên hoan cuối cùng của đám cưới thường diễn ra trong không khí hết sức vui nhộn, bởi bạn bè của cô dâu chú rể đến dự rất đông. Họ vừa ăn uống vừa múa hát chúc mừng cô dâu chú rể.
Sau lễ cưới, chàng trai ở rể và tham gia lao động sản xuất với gia đình cha mẹ vợ. Chàng rể trở thành một thành viên - một lao động chính của gia đình nhà vợ. Năm ba năm sau, do vợ chồng xin phép hoặc cha mẹ gợi ý cho đôi vợ chồng ra ở riêng. Khi ra ở riêng vợ chồng được mang theo một số lúa gạo, nông cụ, trâu bò và một số đồ dùng khác do cha mẹ vợ chia cho. Thời gian đầu ra ở riêng, nhìn chung cặp vợ chồng thường gặp nhiều khó khăn, lúng túng.
Việc cưới xin ở Lào còn có tục được gọi là “kan-xu” nghĩa là một hình thức cho nợ lễ cưới. Vợ chồng có thể lấy nhau, sau khi làm ăn khá giả, sẽ tổ chức đám cưới theo tập quán của bản mường. Bởi vậy, ở Lào có những cặp vợ chồng có đến hai ba đứa con mới tổ chức đám cưới và con cái được dự đám cưới của cha mẹ. Đó là những trường hợp cha mẹ chàng trai nghèo túng chưa có khả năng lo liệu được hoặc đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng cha mẹ ngăn cản, họ vẫn có thể lấy nhau và được bản mường cộng đồng công nhận. Để vượt qua rào cản này, thường họ hẹn nhau vào một ngày nào đó, cô gái đón chàng trai đưa vào phòng của mình. Sáng hôm sau cô gái dậy sớm báo cho cha mẹ biết đêm qua có một chàng trai đến “xu”. Được tin, cha mẹ liền cho người đi mời già bản, họ hàng cùng với cha mẹ chàng trai đến chứng kiến và bàn việc cưới xin sau này. Chỉ sau khi cha mẹ, bà con chàng trai đến nhận con và hứa sẽ tổ chức cưới theo tập quán của bản mường thì chàng trai mới được ra khỏi phòng cô gái. Sau nghi thức “xu khoẳn” đơn giản với sự chứng kiến của hai họ, đôi trai gái chính thức trở thành vợ chồng. Ở Lào, trước đây không ít cặp vợ chồng lấy nhau bằng hình thức “xu” nhưng vẫn sống hạnh phúc có con đàn cháu đống. Đây là tục lệ tiến bộ, mang đạm tính nhân văn, giúp các chàng trai cô gái yêu nhau tha thiết vượt qua khó khăn để nên vợ nên chồng. Tất nhiên, nếu nhà trai, chàng rể bội bạc không giữ lời hứa, bỏ vợ con sẽ bị bản mường trừng phạt. Hình phạt tùy mỗi địa phương gia đình nhà gái.
Trước kia, con gái chửa hoang bị trừng phạt rất nặng. Ngoài hình thức phạt vạ theo lệ làng như tiền, trâu, bò, cả cô gái lẫn chàng trai còn bị cạo trọc đầu dội nước. Vì theo tục lệ bản làng cho rằng đó là hiện tượng không bình thường có thể ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt, lao động sản xuất của cộng đồng.
Ngày nay việc cưới xin ở Lào cả ở thành thị cũng như nông thôn thường được tổ chức theo đời sống mới. Các nghi lễ câu nệ gây lãng phí tiền của, thời gian ngày càng giảm dần. Tuổi kết hôn có khuynh hướng chậm hơn trước, nhất là nam giới. Các nét độc đáo của dân tộc, địa phương gắn chặt với lao động sản xuất, nghè nghiệp, tín ngưỡng vẫn được kế thừa và phát huy trong lễ cưới. Đặc biệt là tính hợp quần, tình đoàn kết của cộng đồng bản mường.