Từ xa xưa,đất nước Triệu Voi đã
được mệnh danh là xứ sở của lễ tết. Bởi vì mỗi năm họ đều có 12 lễ hội gọi là “Hịt
xíp xoỏng”. Một trong số lễ tết ấy phải kể đến là Lễ hội Pháo Thăng Thiên.
Người Lào gọi Lễ hội Pháo Thăng
Thiên là Bun Bặng Phay. Đây là lễ hội truyền thống có tự ngàn xưa, được tổ chức
vào tháng 6 lịch Lào nên còn có tên gọi khác là Tết Tháng Sáu.
|
Những cây pháo nhìn như những tên lửa được gọi là “Bặng phay” |
Lễ hội Pháo Thăng Thiên có tự bao giờ? Ai hoặc dân tộc nào tổ chức
trước? Và tổ chức để làm gì?
Câu hỏi trên còn chưa một ai có
thể trả lời được một cách chắc chắn. Có một truyền thuyết duy nhất liên quan đến
Lễ hội Pháo Thăng Thiên chính là ‘’ Truyền thuyết Nàng Ày ‘’ hay còn có
tên khác là “ Truyền thuyết vua Khỏm xứ Nỏng Hản (Nỏng Hản ngày nay là một cái
hồ lớn thuộc tỉnh Xả Côn Nạ Khon - Đông Bắc Thái Lan ).
Chuyện kể rằng :
Thuở ấy, có một ông
vua Khỏm ( Môn – Kh’mer ) cai trị xứ Nỏng Hản tổ chức Lễ hội Pháo Thăng
Thiên thật lớn để thi thố giữa các mường với nhau. Tất cả các mường đều được mời
đến tham dự. Bao gồm những gương mặt lừng danh như sau :
-
Công tử Phả Đaeng ( Xứ Phả Đaeng - Thuộc phía
Tây Nam tỉnh U Đon Tha Ni – Thái Lan ngày nay.)
-
Vua xứ Xỉ Kẹo ( Tức bản Xỉ Kẹo Phặc Vèn thuộc tỉnh
Rọi Êt –Thái Lan ngày nay )
-
Vua xứ Phả Đẹt ( Bây giờ thuộc tỉnh Ka La Xỉn –
Thái Lan- nơi còn sót lại dấu tích văn hóa Môn – Kh’mer cổ. )
-
Vua xứ Xiêng Hiển ( Thuộc khu vực nói trên )
...
Trong dịp Đại lễ này, con trai của Long Vương tên là Thái tử Phăng Khi ở dưới
sông Mê Công cũng biến thành một chàng trai tuấn tú đến xem hội. Khi nhìn thấy
nhan sắc diễm lệ của con gái vua Khỏm là công chúa Nàng Ày, Thái tử Phăng
khi bỗng thấy xao xuyến trong tim.
Trong dịp thi thố pháo
thăng thiên này, pháo của công tử Phả Đaeng bị vỡ. Pháo vua Khỏm bị tịt ngòi.
Còn pháo của các xứ khác đều bay vọt lên trời cả.
Một ngày nọ, sau khi kết thúc lễ tết, Thái tử Phăng Khi vì tương
tư công chúa Nang Ày, muốn được chiêm ngưỡng nhan sắc diễm lệ của nàng cho thỏa
nhớ mong bèn cùng tùy tùng lên khỏi mặt sông biến mình thành một con sóc trắng,
cổ đeo một cái chuông vàng bám trên cây gạo cạnh lâu đài công chúa Nàng
Ày. Công chúa nghe tiếng chuông vàng ngân lên bèn ra ngó xem, còn anh chàng sóc
trắng tuy miệng gặm trái cây mà ánh mắt như dán vào trang mỹ nhân tuyệt sắc.
Công chúa thấy con sóc kỳ lạ quá bèn sai thợ săn đem cung ra bắn. Chàng sóc trắng
Phăng Khi bị bắn rơi từ trên cây gạo xuống, trước khi tắt thở bèn nguyền rằng: “Nguyện
cho thân thể ta trở thành miếng mồi thơm ngon, dù cả xứ sở này có ăn mãi cũng
không bao giờ hết”.
Qủa nhiên, Nàng Ày sai thợ
săn làm thịt sóc trắng. Công chúa còn sai đem biếu tất cả dân trong xứ Nỏng Hản
ăn, ngoại trừ bọn đàn bà góa bụa, bị chồng bỏ thì không được biếu.
Nói về đám tùy tùng của Thái tử
Phăng Khi, nhìn thấy sự tình như vậy bèn cùng nhau tuột xuống khỏi cây gạo về
tâu lại Long Vương. Long Vương đau đớn và căm giận vô cùng bèn dẫn quân ngay
đêm đó tàn phá xứ Nỏng Hản.
Cũng trong đêm ấy, công tử Phả Đeng là người tình của công chúa Nàng Ày
đi cùng công tử Xảm cưỡi ngựa đến gặp người yêu. Nàng Ày bèn đem món lạp sóc
cho tình lang ăn. Phả Đaeng thấy bất thường bèn bảo rằng : “Tại sao nàng dám ăn
sóc trắng? Nàng há không sợ cả xứ sở bản mường này bị lún chìm trong nước ư?”
Nói đoạn, bèn ôm công chúa lên lưng ngựa chạy biệt xứ. Công tử Xảm không hiểu sự
tình cũng chạy theo đuôi ngựa của hai người.
Lại nói Long Vương cùng thủy
binh đêm ấy tàn phá xứ Nỏng Hản khiến cho khắp nơi ngập chìm trong biển nước,
trừ những nhà của các bà góa và các bà bị chồng ruồng bỏ. Song tìm mãi cũng
không thấy Nàng Ày ở đâu bèn theo dấu ngựa đuổi mãi cho tới khi thấy Phả Đaeng
và Nàng Ày. Còn về Nàng Ày lúc trốn khỏi lâu đài do gấp quá không kịp lấy gì
bèn tiện tay với lấy cái chiêng vàng may mắn đưa cho công tử Xảm đang chạy theo
đuôi ngựa. Long Vương đuổi kịp bèn lấy đuôi quất mạnh khiến cho cái chiêng tuột
khỏi vai công tử Xảm mà rơi xuống. Chỗ ấy về sau gọi là “Nỏng Khọng “ nghĩa là
Hồ Chiêng.Long Vương lại tiếp tục truy đuổi cho đến khi tiếp giáp Nàng Ày bèn
quẫy đuôi khiến cho nhẫn của công chúa tuột rơi. Nơi ấy về sau gọi là Nỏng Vẻn,
nghĩa là Hồ Nhẫn. Long Vương tiếp tục truy đuổi đến cùng.Công tử Xảm chạy theo
đuôi ngựa bị vấp ngã. Long Vương lại truy sát và cuối cùng lấy đuôi quấn công
chúa Nang Ày từ trên lưng ngựa. Riêng công tử Phả Đaeng và công tử Xảm
thì Long Vương không truy sát vì họ không ăn thịt sóc trắng. Những lòng đường
mà quân rồng trườn đi truy sát sau này biến thành những con suối gọi là suối
Chàng Xảm Vấp Ngã ( Huội Ại Xảm Pha Lat ) mà khi ta ngồi hỏa xa từ U Đon đi qua
sẽ nhìn thấy.
Chuyện về Bun Bặng phay ( Lễ
hội Pháo Thăng Thiên ) lớn nhất chỉ có thế. Còn về xứ sở vua Khỏm bị nhấn chìm
xuống biển nước trở thành cái hồ trong huyền thoại trên chính là hồ Nỏng Hản
thuộc quận Kumphawapi – Xả Côn Nạ Khon –Thái Lan ngày nay.( Kumphawapi có nghĩa
là Hồ Trũng )
Qua truyền thuyết về vua xứ Khỏm,
ta nhận ra sự kỳ lạ vì từ năm 1966 đến 1972 trở lại đây, Cục Nghệ thuật Thái
Lan đã khai quật tìm kiếm cổ vật ở Bản Xiêng, thuộc khu vực quanh hồ Nỏng Hản
được cho là xứ sở vua Khỏm trước đây, đã phát hiện được đồ đất nung và hài cốt
người. Tất cả đã được chuyển đến Bảo tàng Trường Đại học Pennsylvania - Mỹ
để giám định niên đại và báo cáo nhận được sau đó là những cổ vật này có niên đại
không dưới 5815 năm cho đến 6854 năm hoặc có thể cho rằng chúng có niên đại từ
5000 năm đến 7000 năm.
Truyền thuyết Phả Đaeng – Nang Ày trên đây không phải là giai thoại nhằm lý giải
nguồn gốc Lễ hội Pháo Thăng Thiên mà chỉ là câu chuyện có liên quan đến lễ tết
này mà thôi. Cho đến nay chưa tìm thấy lời giải đáp trong bất kỳ truyền thuyết
nào.
Đến đây, chúng ta bàn đến vấn đề “ Tại sao lại tổ chức Lễ hội Pháo Thăng
Thiên? “
Vấn đề này thật khó lý giải vì xuất xứ lễ tết này không được nhắc đến ở bất kì
một truyện cổ nào, hoặc sử sách nào. Chỉ có dân gian truyền miệng nhau từ đời
này sang đời khác như sau:
Người Lào đốt pháo thăng
thiên là nhằm để thờ phụng Thẻn/ Then ( Ngọc Đế ) nhằm cầu mưa thuận gió
hòa.Người xưa quan niệm rằng trên trời có nhiều tầng tầng lớp lớp không khác gì
tổ ong, mỗi một tầng là một mường ( xứ sở ) hoặc một quốc gia. Người cai quản mỗi
tầng ấy, người Lào gọi là Pha ya Thẻn ( Vua Thẻn, vua trời ), Tiếng Pa Li gọi
là “ Thếp – Phạ - Chậu “ hay gọi là “ Phạ -in – Phạ-Phôm “.Pha ya Thẻn là
người làm mưa,làm gió,làm ra nước,ra lửa.Việc đốt Pháo Thăng Thiên nhằm thờ phụng
Pha ya Thẻn để cho Ngài hoan hỉ nhằm làm cho thời tiết thuận hòa, dân chúng nhờ
đó mà cày bừa, cấy hái theo từng mùa vụ.
Nhưng cũng có những nhóm người lại cho rằng việc đốt Pháo Thăng thiên là để
cúng dường Phật. Cụ thể có lời ca đốt pháo Thăng Thiên mà người Lào –Thái ở Chiềng
Mai gọi là “ Hằm boọc phay “,hoặc “ Sậng Bặng phay ‘’ như sau :
“ ...Chắp tay nâng tới mây ngàn
Chúng con tô điểm muôn vàn pháo
bông
Sáo,khèn lảnh lót trên không
Vượt bao quan ải
bạch cùng Thế Tôn
Pháo bay trên các tầng trời
Vượt qua muôn ải dâng lời
thành tâm...”
Tóm lại, việc đốt pháo thăng thiên ban đầu là để thờ Ngọc Đế và chư tiên. Nhưng
về sau do chúng ta tín ngưỡng Phật giáo nên đã chuyển sang mục đích cúng dường
Phật. Cũng như những lễ hội truyền thống khác là ban đầu nhằm mục đích thờ phụng
các vị Thần trong Bà La Môn giáo. Chẳng hạn Bun Pi Mày ( Tết Năm mới, tết Té Nước
) lúc đầu là phong tục của những người tín ngưỡng Bà La Môn giáo, về sau lại là
phong tục của những người tín ngưỡng Phật giáo.
Còn một điều quan trọng nữa là việc tổ chức Lễ hội Pháo Thăng Thiên
vào tháng 6 ( Lịch Lào ) không thể thiếu nghi thức vào chùa tu tập và té nước
cho các cao tăng bằng những làn nước tung lên cao.
Vì vậy, mới có giả thiết rằng việc
vào chùa tu tập và té nước trong Lễ hội Pháo Thăng Thiên tháng 6 chính là căn cứ
vào ngày Đản Sinh, ngày Thành Đạo, Ngày nhập niết Bàn của Đức Phật là
cùng một ngày. Nhưng việc người ta gọi ngày rằm tháng 6 ( Lịch Lào ) là ngày
Visak là gọi theo tên một vì sao mang tên sao “ Vi -sa -kha “ ( Sao Kèo nhà )mà
mặt trăng phải đi qua vào đêm 15 tháng 6 mỗi năm. Việc cúng dường nhằm mục đích
tri ân Đức Phật. Người Lào gọi là ngày Vi – xả - khạ -bu-xa.( Việc thờ cúng vào
ngày Visak )
Cho nên việc làm pháo thăng thiên
cũng là để đốt trong ngày Visak ( Phật Đản ).
Dân gian Lào còn truyền tụng bài
ca thế này :
“ Nam mô Phật
Con xin đảnh lễ Đức Thích Ca Mâu
Ni
Đức Thích Ca Mâu Ni trên đầu là
Phật
Nói về tương lai còn lan truyền về
quá khứ
Sự vô thường cháu con khắp chốn
Đừng quên tục lệ bản mường
Phải luôn luôn niệm Phật cầu
kinh
Chớ quên lễ tắc bạt mỗi ngày
Phải hành thiện,bố thí luôn luôn
Ngài dạy chớ sân si ôm hận
......”
Điều này chứng tỏ người xưa đã lồng
lời răn của Phật vào trong câu hát.
Trong Lễ hội Pháo Thăng Thiên, người ta không chỉ đốt pháo mà còn thắp nến, rước
lửa đi xung quanh chùa, xả - la ( bia đá). Những đợt pháo hoa rực rỡ sắc màu cứ
bay lên không trung như mang theo bao ước nguyện của người Lào về một cuộc sống
bình yên tươi đẹp như thế.